Từ lâu, trong tâm thức của người Việt chúng ta, cung cách giao tiếp ứng xử là một trong những vấn đề được coi trọng hàng đầu. Trong đó, bên cạnh những quy định khắt khe về cách thưa gửi đối với những đối tượng tiếp xúc khác nhau, người ta thường xét nét đến cầu kì việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp.
Không thể phủ nhận, văn hóa giao tiếp là một nét đẹp truyền thống, nó biểu trưng cho đời sống tâm hồn và phần nào phản ánh trình độ phát triển nhân cách của con người nói chung. Và ở đó, ngôn ngữ giao tiếp được xem như là một trong những thể hiện rõ nét nhất, đặc trưng nhất nét đẹp đó. Với những điều này, có lẽ ai cũng nhận thức được. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải bao giờ nhận thức cũng được cụ thể hóa bằng hành động. Nghĩa là đâu đó trong xã hội này, chúng ta thi thoảng vẫn bắt gặp và cảm thấy ái ngại bởi những hành vi phản cảm, lời nói, câu đùa tục tĩu, kém duyên – điều thường được coi là thiếu văn hóa.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến một khía cạnh có liên quan và ít nhiều cấu thành nên nét đẹp của văn hóa giao tiếp, đó là: “Ngôn ngữ teen trong giao tiếp của sinh viên”.
Khái niệm “tuổi teen” được ra đời xuất phát từ cách giới hạn độ tuổi vị thành niên. Trong tiếng Anh, theo số đếm thì tuổi teen được xác định nằm trong khoảng từ 13-19 tuổi (thirteen – nineteen). Rồi từ đó, tất cả những gì mang dáng dấp, phong cách của lứa tuổi này (thời trang, tính cách, lối sống…) đều mặc nhiên được gọi là “teen”, ví như “chị này teen nhỉ” là lời nhận xét của ai đó khi bắt gặp một chị khoác trên người một chiếc áo trẻ trung, tinh nghịch; hay “chú này lớn tuổi nhưng trông rất teen” để chỉ một người đàn ông nào đó, dù lớn tuổi nhưng tính tình rất hồn nhiên, vui vẻ…
Không ngoại lệ, đại diện cho tầng lớp trí thức trẻ, các bạn sinh viên cũng sáng tạo ra cho mình cái gọi là “ngôn ngữ teen”. Cái thứ ngôn ngữ trừu tượng và rắc rối này không biết xuất hiện từ bao giờ nhưng đã sớm được lan truyền mạnh mẽ trong hầu hết giới trẻ với tư cách là một “thương hiệu”, thể hiện bẳn sắc, tính đặc thù riêng có ở lứa tuổi này. Tất nhiên, đi kèm với nó là minh chứng cho sự trẻ trung, hồn nhiên, có lúc pha trộn thêm cái nũng nịu, hài hước.
Mảnh đất phổ biến nhất để thứ “ngôn ngữ kì quặc” (xin được tạm gọi như thế) này tồn tại và thăng hoa là qua tin nhắn điện thoại.
Người viết thực sự bất ngờ khi một lần nhận được tin nhắn của một cô sinh viên: “Em chao thay ak. Thay ui, sáng hum ni nha em co viek, thay cho em nghi hok mot bui dk ko ak?” (Tạm dịch: Em chào thầy ạ. Thầy ơi, sáng hôm nay nhà em có việc, thầy cho em nghỉ học một buổi được không ạ). Sau phút đăm chiêu, cũng na ná hiểu được nội dung thông điệp, tôi cố tình như không hiểu, thử hỏi lại xem sao: “Em là ai? Em nói gì tôi không hiểu. Em nói lại rõ hơn được không?”. Lập tức, tôi nhận được tin nhắn phản hồi: “Da, em la sv lop…, e xin thay nghi hok sang ni ak (Dạ, em là sv lớp…, em xin thầy nghỉ học sáng nay ạ). Thế là đã rõ. Tôi cho rằng, có lẽ không cần nghĩ đến việc đang giao tiếp với ai, cái thói quen sử dụng “thương hiệu ngôn ngữ” là có thật. Từ hôm đó, tôi dần quen và có thể sống chung với điều này (có thể hiểu được để phản hồi đúng) mỗi khi nhận được tin nhắn, phổ biến là từ sinh viên. Có thể viện dẫn ra ở đây một số cách “sáng tạo”, “hư cấu” ngôn từ đầy biến hóa của giới trẻ, như: ơi → ui, rồi → rùi, quê → we, hôm nay → hum ni, học → hok, bạn → pạn, trời ơi → trui ui... và vô vàn sự phá cách và biến tướng khác, như: đi đâu vậy → đi đâu zậy, ăn cơm chưa → ăn kơm chưa, có việc gì thế → có việk j thế, bà con ơi → pà con ui, mình biết rồi → mik bit rui, bây giờ đi đâu đây → bi jo (yo) đi đâu đây…vân vân và vân vân. Bên cạnh đó, để tôn thêm sự hồn nhiên, hài hước hay thể hiện sự thất vọng, hào hứng, các ngôn từ mang tính biểu cảm cũng tích cực được sử dụng: hihi, ha ha, hic, huhu; đó là chưa kể đến việc quên luôn cả việc chấm phẩy để chuyển ý và viết hoa tên riêng, địa danh…Tai hại hơn, vì đã trở thành thói quen, thi thoảng người viết cũng bắt gặp “thương hiệu ngôn ngữ” này ở ngay cả bài kiểm tra, bài thi kết thúc học phần của sinh viên.
Nhiều lần gặng hỏi để biết được lí do của trào lưu dùng từ này, tôi hầu hết nhận được câu trả lời của sinh viên là “viết thế cho nhanh, cho tiện” hay “để tiết kiệm kí tự”. Nếu chỉ để tiết kiệm thời gian và kí tự so với việc xây dựng cho mình một thói quen sử dụng ngôn ngữ tốt, chặt chẽ, logic (đúng ngữ pháp, chính tả, có tính thẩm mỹ) thì suy nghĩ này có vẻ nông cạn quá!
Trên đây chỉ là một số thông điệp giao tiếp tiêu biểu mà với sự trải nghiệm của bản thân cùng chút cố gắng suy nghĩ, có thể hiểu được. Vậy, đâu là nguyên nhân?
Thứ nhất, có thể khẳng định, đây là kết quả của quá trình lây lan tâm lý. Những cái mới, lạ khi đã được định hình trong một bộ phận giới trẻ, thị hiếu đó nhanh chóng tạo được hiệu ứng mạnh mẽ. Bởi suy cho cùng, bất kì một hiện tượng mới nào, dù xấu hay tốt, giới trẻ bao giờ cũng là đối tượng tiếp thu sớm nhất và nhanh nhất.
Thứ hai, hiện trạng này sở dĩ tồn tại phổ biến có thể xuất phát từ sự bắt chước. Có thể một số em nhiều khi không hiểu hết được ý nghĩa, cách thức dùng từ, nhưng vì thấy lạ, hấp dẫn nên nảy sinh tâm lý a dua để khỏi lạc lõng trong cộng đồng của mình.
Thứ ba, cũng như việc chạy theo xu hướng thời trang, xác định gu thẩm mỹ âm nhạc, điện ảnh, các em xem việc sử dụng “ngôn ngữ teen” như là một cách để thể hiện bản sắc đặc thù hay chứng tỏ sự hồn nhiên, tinh nghịch, trẻ trung của lứa tuổi mình.
Thực ra, một cách công bằng mà nói, vấn đề sử dụng ngôn từ trong giao tiếp là quyền tự do của mỗi người và cần được tôn trọng, miễn là không vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội. Do đó, việc làm này không thể nói là xấu, đáng lên án và không liên quan đến việc nhìn nhận, đánh giá về nhân cách con người. Tuy nhiên, dưới góc độ văn hóa mà đặc biệt là công tác giáo dục cho giới trẻ về việc phát huy nét đẹp của tiếng Việt, “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, thiết nghĩ, cần lắm một sự trao đổi nghiêm túc.
Là những con người Việt Nam, chúng ta có quyền tự hào và ngợi ca về tính đa dạng, phong phú, giàu có và đặc sắc của tiếng Việt. Hơn ai hết, đại diện cho tầng lớp trí thức tương lai – sinh viên chính là những người nắm giữ và có bổn phận nâng niu, nuôi dưỡng và phát triển mạch nguồn này, để nó không bị mai một mà ngày càng hoàn thiện hơn, tinh tế hơn. Tuy nhiên nhìn vào thực tế hôm nay, có thể thấy, một bộ phận sinh viên vẫn chưa làm được điều này. Hàng ngày, cái “thương hiệu teen” vẫn được đều đặn sử dụng hết sức phổ biến, tiếng Việt vốn đẹp, trong sáng vẫn bị “bóp méo”, “sáng tạo” một cách tùy tiện. Người lớn mà đặc biệt là những người làm giáo dục có lí do để ái ngại và lo lắng về vấn đề này.
Có lẽ phải làm ngay một “cuộc cách mạng” để thay đổi, cải tổ. Sứ mạng này thuộc về đội ngũ sư phạm, các bậc phụ huynh và hơn hết là ở chính nhận thức của bản thân các em. Bên cạnh hoạt động dạy học bộ môn ở nhà trường, sẽ là rất cần thiết khi giáo viên đưa chủ đề này lồng ghép vào các tiết học hay tổ chức các diễn đàn trao đổi, thảo luận nhằm giúp các em có cơ hội nhìn nhận một cách thấu đáo và đi đến việc thay đổi nhận thức.
Ở gia đình, cùng với quá trình giáo dục, các bậc phụ huynh cần quan tâm nhắc nhở, động viên, điều chỉnh và định hướng cho con cái thói quen giao tiếp, ứng xử có văn hóa, đặc biệt là phải dành thời gian uốn nắn, sữa chữa cho các em về hạn chế cố hữu này.
Tóm lại, văn hóa giao tiếp là một nét đẹp đạo đức mà ngôn ngữ giao tiếp là một thành phần quan trọng, phản ánh sinh động nhất nét đẹp đó. Xét trên phương diện phát triển theo lứa tuổi, chúng ta cần tôn trọng những cái riêng có, đã trở thành “bản sắc” của “tuổi teen”. Vì thế, người lớn phải gần gũi hơn, hiểu hơn tâm lý, phong cách, lối sống của các em để từ đó có những cách thức, phương pháp tác động phù hợp, mang lại hiệu quả.
Hi vọng, các bạn sinh viên trong quá trình nhận thức lại “phong cách ngôn ngữ” của mình, sẽ một lần được biết đến lời khẳng định sâu sắc và đầy ý nghĩa của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Tiếng Việt của chúng ta rất giàu. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp. Giàu bởi kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân ta lâu đời và phong phú. Đẹp bởi tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp. Hai nguồn của cái giàu, cái đẹp ấy là ở chỗ tiếng Việt là tiếng nói của nhân dân, đầy tình cảm, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa…”
Ngô Thế Lâm – GV Khoa Đại cương & NVVH
Không thể phủ nhận, văn hóa giao tiếp là một nét đẹp truyền thống, nó biểu trưng cho đời sống tâm hồn và phần nào phản ánh trình độ phát triển nhân cách của con người nói chung. Và ở đó, ngôn ngữ giao tiếp được xem như là một trong những thể hiện rõ nét nhất, đặc trưng nhất nét đẹp đó. Với những điều này, có lẽ ai cũng nhận thức được. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải bao giờ nhận thức cũng được cụ thể hóa bằng hành động. Nghĩa là đâu đó trong xã hội này, chúng ta thi thoảng vẫn bắt gặp và cảm thấy ái ngại bởi những hành vi phản cảm, lời nói, câu đùa tục tĩu, kém duyên – điều thường được coi là thiếu văn hóa.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến một khía cạnh có liên quan và ít nhiều cấu thành nên nét đẹp của văn hóa giao tiếp, đó là: “Ngôn ngữ teen trong giao tiếp của sinh viên”.
Khái niệm “tuổi teen” được ra đời xuất phát từ cách giới hạn độ tuổi vị thành niên. Trong tiếng Anh, theo số đếm thì tuổi teen được xác định nằm trong khoảng từ 13-19 tuổi (thirteen – nineteen). Rồi từ đó, tất cả những gì mang dáng dấp, phong cách của lứa tuổi này (thời trang, tính cách, lối sống…) đều mặc nhiên được gọi là “teen”, ví như “chị này teen nhỉ” là lời nhận xét của ai đó khi bắt gặp một chị khoác trên người một chiếc áo trẻ trung, tinh nghịch; hay “chú này lớn tuổi nhưng trông rất teen” để chỉ một người đàn ông nào đó, dù lớn tuổi nhưng tính tình rất hồn nhiên, vui vẻ…
Không ngoại lệ, đại diện cho tầng lớp trí thức trẻ, các bạn sinh viên cũng sáng tạo ra cho mình cái gọi là “ngôn ngữ teen”. Cái thứ ngôn ngữ trừu tượng và rắc rối này không biết xuất hiện từ bao giờ nhưng đã sớm được lan truyền mạnh mẽ trong hầu hết giới trẻ với tư cách là một “thương hiệu”, thể hiện bẳn sắc, tính đặc thù riêng có ở lứa tuổi này. Tất nhiên, đi kèm với nó là minh chứng cho sự trẻ trung, hồn nhiên, có lúc pha trộn thêm cái nũng nịu, hài hước.
Mảnh đất phổ biến nhất để thứ “ngôn ngữ kì quặc” (xin được tạm gọi như thế) này tồn tại và thăng hoa là qua tin nhắn điện thoại.
Người viết thực sự bất ngờ khi một lần nhận được tin nhắn của một cô sinh viên: “Em chao thay ak. Thay ui, sáng hum ni nha em co viek, thay cho em nghi hok mot bui dk ko ak?” (Tạm dịch: Em chào thầy ạ. Thầy ơi, sáng hôm nay nhà em có việc, thầy cho em nghỉ học một buổi được không ạ). Sau phút đăm chiêu, cũng na ná hiểu được nội dung thông điệp, tôi cố tình như không hiểu, thử hỏi lại xem sao: “Em là ai? Em nói gì tôi không hiểu. Em nói lại rõ hơn được không?”. Lập tức, tôi nhận được tin nhắn phản hồi: “Da, em la sv lop…, e xin thay nghi hok sang ni ak (Dạ, em là sv lớp…, em xin thầy nghỉ học sáng nay ạ). Thế là đã rõ. Tôi cho rằng, có lẽ không cần nghĩ đến việc đang giao tiếp với ai, cái thói quen sử dụng “thương hiệu ngôn ngữ” là có thật. Từ hôm đó, tôi dần quen và có thể sống chung với điều này (có thể hiểu được để phản hồi đúng) mỗi khi nhận được tin nhắn, phổ biến là từ sinh viên. Có thể viện dẫn ra ở đây một số cách “sáng tạo”, “hư cấu” ngôn từ đầy biến hóa của giới trẻ, như: ơi → ui, rồi → rùi, quê → we, hôm nay → hum ni, học → hok, bạn → pạn, trời ơi → trui ui... và vô vàn sự phá cách và biến tướng khác, như: đi đâu vậy → đi đâu zậy, ăn cơm chưa → ăn kơm chưa, có việc gì thế → có việk j thế, bà con ơi → pà con ui, mình biết rồi → mik bit rui, bây giờ đi đâu đây → bi jo (yo) đi đâu đây…vân vân và vân vân. Bên cạnh đó, để tôn thêm sự hồn nhiên, hài hước hay thể hiện sự thất vọng, hào hứng, các ngôn từ mang tính biểu cảm cũng tích cực được sử dụng: hihi, ha ha, hic, huhu; đó là chưa kể đến việc quên luôn cả việc chấm phẩy để chuyển ý và viết hoa tên riêng, địa danh…Tai hại hơn, vì đã trở thành thói quen, thi thoảng người viết cũng bắt gặp “thương hiệu ngôn ngữ” này ở ngay cả bài kiểm tra, bài thi kết thúc học phần của sinh viên.
Nhiều lần gặng hỏi để biết được lí do của trào lưu dùng từ này, tôi hầu hết nhận được câu trả lời của sinh viên là “viết thế cho nhanh, cho tiện” hay “để tiết kiệm kí tự”. Nếu chỉ để tiết kiệm thời gian và kí tự so với việc xây dựng cho mình một thói quen sử dụng ngôn ngữ tốt, chặt chẽ, logic (đúng ngữ pháp, chính tả, có tính thẩm mỹ) thì suy nghĩ này có vẻ nông cạn quá!
Trên đây chỉ là một số thông điệp giao tiếp tiêu biểu mà với sự trải nghiệm của bản thân cùng chút cố gắng suy nghĩ, có thể hiểu được. Vậy, đâu là nguyên nhân?
Thứ nhất, có thể khẳng định, đây là kết quả của quá trình lây lan tâm lý. Những cái mới, lạ khi đã được định hình trong một bộ phận giới trẻ, thị hiếu đó nhanh chóng tạo được hiệu ứng mạnh mẽ. Bởi suy cho cùng, bất kì một hiện tượng mới nào, dù xấu hay tốt, giới trẻ bao giờ cũng là đối tượng tiếp thu sớm nhất và nhanh nhất.
Thứ hai, hiện trạng này sở dĩ tồn tại phổ biến có thể xuất phát từ sự bắt chước. Có thể một số em nhiều khi không hiểu hết được ý nghĩa, cách thức dùng từ, nhưng vì thấy lạ, hấp dẫn nên nảy sinh tâm lý a dua để khỏi lạc lõng trong cộng đồng của mình.
Thứ ba, cũng như việc chạy theo xu hướng thời trang, xác định gu thẩm mỹ âm nhạc, điện ảnh, các em xem việc sử dụng “ngôn ngữ teen” như là một cách để thể hiện bản sắc đặc thù hay chứng tỏ sự hồn nhiên, tinh nghịch, trẻ trung của lứa tuổi mình.
Thực ra, một cách công bằng mà nói, vấn đề sử dụng ngôn từ trong giao tiếp là quyền tự do của mỗi người và cần được tôn trọng, miễn là không vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội. Do đó, việc làm này không thể nói là xấu, đáng lên án và không liên quan đến việc nhìn nhận, đánh giá về nhân cách con người. Tuy nhiên, dưới góc độ văn hóa mà đặc biệt là công tác giáo dục cho giới trẻ về việc phát huy nét đẹp của tiếng Việt, “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, thiết nghĩ, cần lắm một sự trao đổi nghiêm túc.
Là những con người Việt Nam, chúng ta có quyền tự hào và ngợi ca về tính đa dạng, phong phú, giàu có và đặc sắc của tiếng Việt. Hơn ai hết, đại diện cho tầng lớp trí thức tương lai – sinh viên chính là những người nắm giữ và có bổn phận nâng niu, nuôi dưỡng và phát triển mạch nguồn này, để nó không bị mai một mà ngày càng hoàn thiện hơn, tinh tế hơn. Tuy nhiên nhìn vào thực tế hôm nay, có thể thấy, một bộ phận sinh viên vẫn chưa làm được điều này. Hàng ngày, cái “thương hiệu teen” vẫn được đều đặn sử dụng hết sức phổ biến, tiếng Việt vốn đẹp, trong sáng vẫn bị “bóp méo”, “sáng tạo” một cách tùy tiện. Người lớn mà đặc biệt là những người làm giáo dục có lí do để ái ngại và lo lắng về vấn đề này.
Có lẽ phải làm ngay một “cuộc cách mạng” để thay đổi, cải tổ. Sứ mạng này thuộc về đội ngũ sư phạm, các bậc phụ huynh và hơn hết là ở chính nhận thức của bản thân các em. Bên cạnh hoạt động dạy học bộ môn ở nhà trường, sẽ là rất cần thiết khi giáo viên đưa chủ đề này lồng ghép vào các tiết học hay tổ chức các diễn đàn trao đổi, thảo luận nhằm giúp các em có cơ hội nhìn nhận một cách thấu đáo và đi đến việc thay đổi nhận thức.
Ở gia đình, cùng với quá trình giáo dục, các bậc phụ huynh cần quan tâm nhắc nhở, động viên, điều chỉnh và định hướng cho con cái thói quen giao tiếp, ứng xử có văn hóa, đặc biệt là phải dành thời gian uốn nắn, sữa chữa cho các em về hạn chế cố hữu này.
Tóm lại, văn hóa giao tiếp là một nét đẹp đạo đức mà ngôn ngữ giao tiếp là một thành phần quan trọng, phản ánh sinh động nhất nét đẹp đó. Xét trên phương diện phát triển theo lứa tuổi, chúng ta cần tôn trọng những cái riêng có, đã trở thành “bản sắc” của “tuổi teen”. Vì thế, người lớn phải gần gũi hơn, hiểu hơn tâm lý, phong cách, lối sống của các em để từ đó có những cách thức, phương pháp tác động phù hợp, mang lại hiệu quả.
Hi vọng, các bạn sinh viên trong quá trình nhận thức lại “phong cách ngôn ngữ” của mình, sẽ một lần được biết đến lời khẳng định sâu sắc và đầy ý nghĩa của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Tiếng Việt của chúng ta rất giàu. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp. Giàu bởi kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân ta lâu đời và phong phú. Đẹp bởi tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp. Hai nguồn của cái giàu, cái đẹp ấy là ở chỗ tiếng Việt là tiếng nói của nhân dân, đầy tình cảm, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa…”
Ngô Thế Lâm – GV Khoa Đại cương & NVVH